Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013


Huấn Cao

 ThơTrần Ngọc Hưởng
Trần Ngọc Hưởng
cay_bach
Biết bao cao đẹp là trang sách
Đọc chỉ một lần chẳng thể quên
Chữ nghĩa vào tay ai sáng tạo
Bình thường sao bỗng hóa thiêng liêng!
Lửa đóm người khêu rừng rực cháy
Nhà tù u tịch giữa đêm đen
Vọng canh tiếng mõ rơi đều đặn
Bóng dáng tử tù vụt sáng lên

Bày trong chật hẹp gian buồng tối
Cỗ nặng đeo gông chân vướng xiềng
Nhà ngục hôi tanh thành hội quán
Một thư phòng nhỏ, góc bình yên
Trút cả tài hoa và khí phách
Tặng người tri kỷ mới vừa quen
Mực thơm lụa trắng tay vung bút
Rồng phượng tôn vinh chữ thánh hiền
Quý một tấm lòng thờ cái đẹp
Cho đời vạn thuở mãi lưu tên
Huấn Cao bất khuất và cao ngạo
Tự tại ung dung… chẳng lụy phiền
Đĩnh đạc thở dài khuyên quản ngục
Sớm rời ô nhục chốn bon chen
Thiên lương có giữ cho lành vững
Chữ đẹp mới hòng khỏi ố hoen!
Trần Ngọc Hưởng


Qua Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu


*TRẦN NGỌC HƯỞNG dịch thơ chữ Hán của NGUYỄN DU






湘潭弔三閭大夫其一



好修人去二千載, 
此地猶聞蘭芷香。 
宗國三年悲放逐, 
楚詞萬古擅文章。 
魚龍江上無殘骨, 
杜蒻洲邊有眾芳。 
極目傷心何處是, 
秋風落木過沅湘。


Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 1 

Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải,

Thử địa do văn lan chỉ hương.

Tống quốc tam niên bi phóng trục,

Sở từ vạn cổ thiện văn chương.

Ngư long giang thượng vô tàn cốt,

Đỗ nhược châu biên hữu chúng phương.

Cực mục thương tâm hà xứ thị,

Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương .



Qua Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu


1 

Hai ngàn năm khách hiếu tu,

Mà hương lan phảng phất như hãy còn

Ba năm đất trích mỏi mòn,

Sở từ muôn thuở văn chương hàng đầu.

Dòng rồng cá nắm xương đâu,

Bên triền đỗ nhược ngát màu cỏ thơm.

Đâu đây vời ngắm đoạn trường,

Gió thu lá rụng Nguyên Tương qua vùng.
 



2 

Hai ngàn năm trước người hiền khuất,

Lan chỉ chốn này vẫn tỏa hương.

Đất trích ba năm sầu biệt xứ,

Sở từ nghìn thuở đỉnh văn chương.

Cá rồng dưới đáy, đâu xương vụn,

Đỗ nhược trên bờ, lắm cỏ thơm.

Xa ngắm chốn nào sầu đứt ruột,

Gió thu lá rụng nẻo Nguyên Tương.


TRẦN NGỌC HƯỞNG

湘潭弔三閭大夫其二



楚國冤魂葬此中, 
煙波一望渺何窮。 
直交憲令行天下, 
何有離騷繼國風。 
千古誰人憐獨醒, 
四方何處托孤忠。 
近時每好為奇服, 
所揹椒蘭竟不同。
 

Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 2




Sở quốc oan hồn táng thử trung,

Yên ba nhất vọng diểu hà cùng.

Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ,

Hà hữu Ly tao kế Quốc phong?

Thiên cổ thuỳ nhân liên độc tỉnh,

Tứ phương hà xứ thác cô trung?

Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục,

Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.






Qua Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu 

1 

Hồn oan nước Sở đáy sông,

Mênh mông khói sóng vời trông giang hà.

Ví bằng hiến lệnh ban ra,

Ly tao sao có tiếp là Quốc phong

Nghìn thu độc tỉnh thương ông,

Hỏi đâu gửi mảnh cô trung ai người?

Gần đây ham lạ theo thời,

Đeo lan chỉ cách đeo thôi chẳng cùng.
 

2 

Nước Sở hồn oan táng đáy sông

Chơi vơi khói nước mịt mờ trông.

Nếu như hiến lệnh ra thiên hạ,

Sao có Ly tao nối Quốc phong.

Nghìn thuở ai người thương độc tỉnh,

Bốn phương đâu chốn gửi cô trung.

Gần đây ăn mặc ham đồ lạ,

Cách vắt tiêu lan chẳng giống ông.


TRẦN NGỌC HƯỞNG