Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013


Viết khi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy mất

ThơTrần Ngọc Hưởng
Trần Ngọc Hưởng
pham_duy_2
Nhạc sĩ Phạm Duy (1921-2013)
Nước non ngàn dặm ra đi,
Bỏ quê bỏ nước nỗi gì lênh đênh.
Nhánh rong phiêu bạt nổi chìm,
Từ thanh đến tục lại thiền thênh thang
Ai đi từ Ải Nam Quan,
Về Cà Mau, Mẹ Việt Nam… cuối trời.
Tiếng buồn vui, tiếng nước tôi,
Vài ngàn năm lẻ một lời Tình ca.

Bầy chim bỏ xứ vỡ òa
Rong ca một khúc, Thiền ca nửa đời
Giạt theo mệnh nước nổi trôi,
Bi hài bao nỗi khóc cười được thua.
Một đời thà như giọt mưa,
Khô trên tượng đá… cho vừa nhớ nhau.
Mượn thanh âm nối nhịp cầu,
Đi đâu rồi cũng quay đầu lại quê.
Bước bồng bềnh, bước mải mê,
Phận buồn những muốn sẻ chia cùng người.
Thùy dương rũ bến tơi bời,
Chiều nay sương khói lên khơi… cõi nào
Ai đi về phía chiêm bao,
Lời ca tiếng nhạc ngọt ngào lòng quê.
Ừ thôi như thể chưa hề,
Trăm năm nước chẳng lỗi thề cùng non.!
Trần Ngọc Hưởng
Tác giả có dùng một số tên bài hát, lời hát của Nhạc sĩ Phạm Duy


Thơ Trần Ngọc Hưởng


Một lời Tình ca


Viết khi nghe tin Nhạc sĩ Phạm Duy mất




Nước non ngàn dặm ra đi,
Bỏ quê bỏ nước nỗi gì lênh đênh.
Nhánh rong phiêu bạt nổi chìm,
Từ thanh đến tục lại thiền thênh thang

Ai đi từ Ải Nam Quan,
Về Cà Mau, Mẹ Việt Nam… cuối trời.
Tiếng buồn vui, tiếng nước tôi,
Vài ngàn năm lẻ một lời Tình ca.
                                          
Bầy chim bỏ xứ vỡ òa
Rong ca một khúc, Thiền ca nửa đời
Giạt theo mệnh nước nổi trôi,
Bi hài bao nỗi khóc cười được thua.

Một đời thà như giọt mưa,
Khô trên tượng đá… cho vừa nhớ nhau.
Mượn thanh âm nối nhịp cầu,
Đi đâu rồi cũng quay đầu lại quê.

Bước bồng bềnh, bước mải mê,
Phận buồn những muốn sẻ chia cùng người.
Thùy dương rũ bến tơi bời,
Chiều nay sương khói lên khơi… cõi nào

Ai đi về phía chiêm bao,
Lời ca tiếng nhạc ngọt ngào lòng quê.
Ừ thôi như thể chưa hề,
Trăm năm nước chẳng lỗi thề cùng non.!
Trần Ngọc Hưởng

Có dùng một số tên bài hát, lời hát của Nhạc sĩ Phạm Duy.





Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

Thơ dịch


Bài ca người gảy đàn ở Long thành

Posted: 29/01/2013 in Nguyễn DuThơTrần Ngọc Hưởng
Thơ chữ Hán: Nguyễn Du
Trần Ngọc Hưởng dịch
woman_playing_a_sanxian
Khách giai nhân đất Long Thành,
Chẳng ai nhớ được rõ rành họ tên.
Nguyệt cầm nổi tiếng ngón riêng,
Trong thành ai cũng gọi quen cô Cầm.
Lừng danh Cung phụng khúc đàn,
Từ bao triều trước thế gian đâu bằng.   
Nhớ xưa từng gặp một lần,
Tiệc vui hồ Giám đến gần nửa đêm.
Hai mươi mốt tuổi hồn nhiên,
Áo hồng đào ánh hồng lên mặt đào.
Ngấm hơi rượu má hồng sao,
Phím đàn dìu dặt tuôn trào năm cung.
Khoan như gió thoảng rừng thông,
Trong như đôi hạc vọng trùng xa xăm.
Mạnh như Tiến Phúc sét gầm,
Buồn như tiếng Việt, Tích nằm bệnh rên.
Nghe rồi mệt mỏi dường quên,
Tiếng đàn đại nội vẳng lên Trung hòa.
Tây Sơn quan khách la đà,
Mảng vui muốn kéo dài ra đêm dài.
Bốn bề gieo thưởng đua tài,
Bạc vàng coi rẻ vung tay ném bùn.
Vẻ hào hoa át vương công,
Ngũ Lăng chàng trẻ cũng khống kể nào.
Cung xuân băm sáu lắng vào,
Trường An một vật báu trao tay người.
Hai mươi năm thoắt qua rồi,
Tây Sơn đổ sụp, ta rời về nam.
Long Thành chốc bỗng quan san,
Nói làm chi chuyện hát đàn đã xa.
Đậm tình Tuyên phủ tiễn ta,
Tiệc vui ca nữ mặt hoa tuyệt vời.
Nhác trông chiếu cuối một người,
Tóc hoa râm dáng gầy hơi chớm già.
Đôi mày phờ phạc phôi pha,
Giấu sao hết nét tài hoa một thời .
Khúc xưa nổi, lệ thầm rơi,
Lắng nghe thêm, những bời bời ruột đau.
Hai mươi năm chẵn qua mau,
Mà người hồ Giám năm nào còn đây.
Con người thành quách đổi thay,
Nương dâu hóa biển khơi đầy, chao ôi!
Tây Sơn sự nghiệp thôi rồi,
Mà phường hát múa một người còn trơ.
Trăm năm nào khác giấc mơ,
Cảm thương việc cũ lệ khô áo là.
Về nam bạc hết tóc ta,
Trách chi ai phấn hương hoa chớm tàn.
Giương đôi mắt ếch mơ màng,
Thương nhau gặp mặt lòng càng thêm xa.
Long thành cầm giả ca
Long thành giai nhân
Bất ký danh tự
Ðộc thiện huyền cầm
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung Cung Phụng khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến
Thử thời tam thất chánh phương niên
Xuân phong yểm ánh đào hoa diện
Ðà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như luơng phong độ tùng lâm
Thanh như chích hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch
Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt ngâm
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện
Tận thị Trung Hòa Ðại Nội âm
Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng công hầu
Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo
Tính tương tam thập lục cung xuân
Hoán thủ Trường An vô giá bảo
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên
Chỉ xích Long Thành bất phục kiên (kiến)
Hà huống thành trung ca vũ diên
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan xú thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn my bất sức trang
Thùy tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu
Cựu khúc tân thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi
Thành quách suy di nhân sự cải
Kỷ độ tang điền biến thương hải
Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong
Ca vũ không lưu nhất nhân tại
Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
Nam Hà quy lai đầu tận bạch
Quái để giai nhân nhan sắc suy
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
Khả liên đối diện bất tương tri.
(1) Đàn Nguyễn (Nguyễn cầm) tức đàn nguyệt. Tục truyền đàn nguyệt do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn (Trung quốc) sáng chế nên gọi là đàn Nguyễn
(2)Tiền triều: Chỉ triều nhà Lê, vì lúc đó thuộc triều Tây Sơn.
(3) Hồ Giám (Giám hồ) hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội).
(4) Bia Tiến Phúc: tên tấm bia dựng ở một ngôi cổ ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây (Trung Quốc). Tương truyền dưới triều nhà Tống, Phạm Trọng Yêm lúc làm quan ở Bá Dương, có người học trò nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho rập một nghìn bản để bán lấy tiền. Chưa rập xong thì một đêm kia bia bị sét đánh vỡ tan.
(5) Trang Tích: sống ở thời Xuân Thu, Trung Quốc. Ông là người nước Việt, làm quan nước Sở. Khi ông ốm, Sở Vương hỏi cận thần: “Tích là kẻ tầm thường ở đất Việt, nay làm quan nước Sở, được phú quý rồi, thì còn nhớ nước Việt nữa không?”. Viên thị ngự đáp: “Phàm người ta có nhớ nước cũ hay không, thường tỏ ra trong lúc đau ốm. Nếu lúc này ông ta nói tiếng Việt tức là nhớ nước Việt, bằng không thì nói tiếng nước Sở”. Sở Vương sai người lén nghe thì thấy Trang Tích nói tiếng Việt. Dẫn tích này để ám chỉ người không quên quê hương, đất nước.
(6) Đại nội Trung Hòa: tên một tòa điện trong hoàng thành nhà Lê.
(7) Vãi thưởng: dịch thoát chữ Triền đầu. Đời Đường trong yến tiệc vua đãi, ai đứng dậy múa được ban gấm để quấn đầu như vật tặng thưởng. Về sau các món tiền thưởng cho người ca múa được gọi là triền đầu.
(8) Ngũ Lăng: một vùng đất ngoại ô phía tây kinh thành Trường An (Trung quốc), ở đó có năm lăng mộ của năm vua nhà Hán. Về sau nơi này, quan lại, quí tộc cấp cao và dân hào hoa phú quý thường ở. Ngũ lăng thiếu niên, chỉ những con nhà quyền quý, giàu sang. Bài ”Tì Bà Hành” của Bạch Cư Dị có câu: ”Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu”.
(9)Ba mươi sáu cung xuân (Tam thập lục cung): trong đền vua ngày xưa bên Trung quốc có 36 cung chứa đầy mỹ nữ.
(10)Trường An hay Tràng An là kinh đô của hơn mười triều đại Trung Quốc. Trường An (長安) nghĩa là an bình lâu dài. Thời Tây Chu được gọi là Phong Kinh (豊京). Thời Tây Hán được gọi là Trường An. Thời nhà Tấn, được gọi là Thường An (常安) nghĩa là luôn an bình. Từ thời nhà Minh được gọi là Tây An. Và nay được gọi là Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây.
(11)Chỉ quan trấn thủ Bắc Thành, vào lúc Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc mùa xuân 1813.
(Tiểu dẫn của Nguyễn Du)
Long thành Cầm giả, bất tri tính thị. Văn kì ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kì nhân lưu lạc thị triền, hiệp kĩ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kĩ. Dư thiểu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ điếm. Kì bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kì nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch, Triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch ủy tích mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân khoát kiểm, ngạch đột diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hỉ lãng hước, nhãn hoắc hoắc, khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ, ngọa địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dã. Hậu sổ tải, Dư tòng gia nam quy, bất đáo Long thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kì nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kì trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thùy hà. Duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tức kì nhân dã. Ta hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kì khả lượng da. Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.
Người gảy đàn ấy không rõ họ tên là gì, chỉ nghe thuở nhỏ nàng đã theo học đàn Nguyễn trong bộ nữ nhạc cung vua Lê. Tây Sơn dấy binh, đội nhạc cũ chết chóc, tản mác. Nàng lưu lạc nơi đầu chợ, ôm đàn hát rong. Những bài nàng đàn đều là những khúc gảy hầu nhà vua, người ngoài không ai được nghe, cho nên nàng được khen là “tuyệt kỹ” của một thời.
Tôi, hồi trẻ đến kinh đô thăm anh tôi, đêm trọ ở quán bên hồ Giám. Cạnh đấy, các quan Tây Sơn tụ hội bọn con hát, trong đó con hát nổi tiếng không dưới vài chục người. Nàng thạo đàn Nguyễn, hát cũng hay, lại khéo pha trò. Người xem đều mê mẩn, nhiều lần thưởng cho nàng những chén rượu lớn, nàng tức thì uống cạn, tiền lụa thưởng nhiều vô số kể, chất đầy mặt đất.
Tôi lúc ấy nấp trong bóng tối, không trông rõ lắm. Sau gặp nàng ở nhà anh tôi. Nàng không đẹp lắm, người thấp, má phính, trán dô, mặt gãy, người đẫy đà, khéo trang điểm, mày nhạt phấn đậm, áo màu hồng, quần lụa đen biếc, phong nhã tươi tắn. Nàng hay uống rượu, thích hài hước, mắt long lanh, chẳng hề để ý đến một ai. Ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu nàng đều say, nôn mửa cả ra, nằm dài trên đất, bạn bè cũng không để tâm chê trách. Sau đó vài năm tôi dời vào Nam, và từ đó không trở lại Thăng Long nữa.
Mùa xuân năm nay, tôi phụng mệnh sang sứ phương Bắc, trên đường qua Thăng Long, các quan có đặt tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ nên cho gọi hết nữ nhạc trong thành, con hát trẻ đến mấy chục người, tôi đều không biết mặt biết tên. Họ thay nhau ca múa. Rồi nghe vút lên một khúc đàn Cầm trong trẻo, nghe khác hẳn các khúc nhạc đương thời. Tôi lấy làm lạ nhìn người đàn, thì thấy người gầy võ, thần sắc khô khan, mặt đen, xấu như quỉ, quần áo toàn bằng vải thô, bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi lặng lẽ ở cuối chiếu, không nói không cười, hình dáng khó coi quá.
Tôi không biết là ai, duy nghe tiếng đàn thì dường như đã từng quen biết nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi đến người chơi đàn thì ra chính người gảy đàn ngày xưa ấy. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi này! Tôi bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, khôn xiết cảm thương cho sự đổi thay xưa và nay. Đời người trăm năm, vinh nhục buồn vui khó có thể nào lường được. Sau khi từ biệt, suốt trên đường đi tôi cảm xúc vô hạn, nên làm bài ca để gởi mối cảm hứng.

龍城琴者歌
龍城佳人
不記名字
獨善絃琴
舉城之人以琴名
學得先朝宮中供奉曲
自是天上人間第一聲
余在少年曾一見
監湖湖邊夜開宴
此時三七正芳年
春風掩映桃花面
酡顏憨態最宜人
歷亂五聲隨手變
緩如涼風度松林
清如隻鶴鳴在陰
烈如荐福碑頭碎霹靋
哀如莊舄病中為越吟
聽者靡靡不知倦
盡是中和大內音
西山諸臣滿座盡傾倒
徹夜追歡不知曉
左拋右擲爭纏頭
泥土金錢殊草草
豪華意氣凌公侯
五陵年少不足道
并將三十六宮春
換取長安無賈寶
此夕回頭二十年
西山敗後余南遷
咫尺龍城不復見
何況城中歌舞莚
宣撫使君為余重買笑
席中歌妓皆年少
席末一人髮半華
顏醜神枯形略小
狼藉殘眉不飾粧
誰知便是當年城中第一調
舊曲新聲暗淚垂
耳中靜聽心中悲
猛然億起二十年前事
監湖湖邊曾見之
城郭推移人事改
幾度桑田變蒼海
西山基業一旦盡消亡
歌舞空留一人在
瞬息百年曾幾時
傷心往事淚沾衣
南河歸來頭盡白
怪底佳人顏色衰
雙眼瞪瞪 空想像
可憐對面不相知
Thơ chữ Hán: Nguyễn Du
Trần Ngọc Hưởng dịch

Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2013

thơ dịch


湘潭弔三閭大夫其一

好修人去二千載, 
此地猶聞蘭芷香。 
宗國三年悲放逐, 
楚詞萬古擅文章。 
魚龍江上無殘骨, 
杜蒻洲邊有眾芳。 
極目傷心何處是, 
秋風落木過沅湘。



 

Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 1



                                              
Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải,
Thử địa do văn lan chỉ  hương.
Tống quốc tam niên bi phóng trục,
Sở từ  vạn cổ thiện văn chương.
Ngư long giang thượng vô tàn cốt,
Đỗ nhược  châu biên hữu chúng phương.
Cực mục thương tâm hà xứ thị,
Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương .

Qua Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu

1 - Hai ngàn năm khách hiếu tu,
Mà hương lan phảng phất như hãy còn
Ba năm đất trích mỏi mòn,
Sở từ muôn thuở văn chương hàng đầu.
Dòng rồng cá nắm xương đâu,
Bên triền đỗ nhược ngát màu cỏ thơm.
Đâu đây vời ngắm đoạn trường,
Gió thu lá rụng Nguyên Tương qua vùng.


2 – Hai ngàn năm trước người hiền khuất,
Lan chỉ chốn này vẫn tỏa hương.
Đất trích ba năm sầu biệt xứ,
Sở từ nghìn thuở đỉnh văn chương.
Cá rồng dưới đáy, đâu xương vụn,
Đỗ nhược trên bờ, lắm cỏ thơm.
Xa ngắm chốn nào sầu đứt ruột,
Gió thu lá rụng nẻo Nguyên Tương.

Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

thơ dịch


同,
龍。
道,
宮。
子,
翁。
睡,





Thăng Long
1

Tản lĩnh Lô giang tuế tuế đồng
Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung
Tương thức mỹ nhân khan bão tử
Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông
Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy
Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung
   
Thăng Long
 1

1 - Lô Giang Tản Lĩnh núi sông
Bạc đầu còn thấy Thăng Long phút này
Dinh cơ đâu, đường cái đây
Ai đem thành mới lấp đầy cung xưa?
Gái quen đã bế con thơ
Bạn chơi thời nhỏ bây giờ thành ông
Thâu đêm nghĩ ngợi bềnh bồng
Đâu đây tiếng sáo trăng trong một trời

2 – Tản Lĩnh Lô Giang vẫn núi sông
Bạc đầu còn được thấy Thăng Long
Ngàn năm nhà lớn thành đường cái
Một mảnh thành nay lấp cố cung
Người đẹp quen xưa đang bế trẻ
Bạn chơi thân cũ thảy lên ông
Vấn vương thức trắng đêm khôn ngủ
Tiếng sáo vi vu bóng nguyệt lồng


城,
京。
跡,
聲。
奪,
生。
息,
星。



Thăng Long
 2

Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành
Do thị Thăng Long cựu đế kinh
Cù hạng tứ khai mê cựu tích
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh
Thiên niên phú quý cung tranh đoạt
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh
Thế sự phù trầm hưu thán tức
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh

Thăng Long
 2
1 - Trăng xưa soi xuống thành nay
Vẫn Thăng Long của bao ngày đã qua
Phố phường dấu cũ phai nhòa
Tiếng đàn sáo cũng phôi pha cả rồi
Ngàn năm phú quý nhử mồi
Bạn bè thời trẻ lần hồi lơ thơ
Việc đời chìm nổi đành ngơ
Tóc mình cũng đã bạc phơ lâu rồi

2 – Trăng vàng mùa cũ chiếu thành đây
Còn đó Thăng Long của những ngày
Đường sá dọc ngang nhòa dấu cũ
Sáo đàn quen lạ trổi hơi nay
Giàu sang muôn thuở mồi tranh cướp
Bè bạn ngày xanh nửa gió mây
Chìm nổi việc đời đừng oán trách
Tóc mình lốm đốm bạc nhanh thay

 楊妃故里

山雲削略岸花明
見說楊妃此地生
自是舉朝空立仗
枉敎千古罪傾城
蕭蕭南內蓬蒿遍
寞冪西郊丘隴平
狼籍殘紅無覓處
東風城下不勝情




Dương Phi (1) cố lý

Sơn vân tước lược ngạn hoa minh
Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh
Tự thị cử triều không lập trượng (2)
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành
Tiêu tiêu Nam Nội (3) bồng hao biến
Mịch mịch Tây Giao (4) khâu lũng bình
Lang tạ tàn hồng (5) vô mịch xứ
Ðông phong thành hạ bất thăng tình






Làng cũ Dương Quí Phi

1 - Mây rừng hoa bến lung linh,
Dương phi xưa, đất ấy sinh thuở nào.
Một tài phỗng đá cả trào,
Muôn thu đổ tội nghiêng chao ngai vàng.
Cỏ hoang Nam Nội mọc tràn,
Tây Giao vắng ngắt đống bằng gò san.
Tìm đâu phấn rã hương tàn,
Gió đông, thành dưới ngổn ngang bao tình.

2 – Mây núi lơ thơ hoa bến thắm,
Dương phi nghe nói đất này sinh.
Cả triều trách bọn câm mồm đứng,
Muôn thuở oan ai tội đổ thành.
Nam nội buồn hiu lau cỏ khắp,
Tây giao lặng ngắt đống gò quanh.
Hương tàn phấn rã tìm đâu thấy,
Thành dưới gió đông thổi rợn tình.


Thứ Năm, 24 tháng 1, 2013


Người hát rong ở thành Thái Bình

Posted: 25/01/2013 in Nguyễn DuThơTrần Ngọc Hưởng
Thơ chữ Hán Nguyễn Du
Trần Ngọc Hưởng dịch
hat_rong

                
Người mù áo vải Thái Bình,
Lần tay trẻ dắt dọc miền ven sông.
Ngoại thành nghe nói mình ông,
Hàng ngày kế sống hát rong kiếm tiền.
Bấy giờ trên chiếc thuyền bên,
Người ưa hát gọi xuống thuyền nghe chơi.  
Dắt tay vào tận nơi rồi,
Đến bên cửa sổ khi trời tối đen.
Bấy giờ chập choạng không đèn,
Cơm thừa canh đổ khắp trên khoang thuyền.
Ông già sờ soạng ngồi bên,
Cảm ơn tay đã giơ lên mấy lần.
Miệng ca tay nắn dây đàn,
Ngón buông ngón bắt nhặt khoan không ngừng.
Âm thanh lạ chỉ nghe chừng,
Điệu du dương đủ rưng rưng hồn người.
Nhà thuyền viết chữ bảo tôi:
Thế Dân đây đoạn giựt ngôi Kiến Thành.
Chục người xem thảy lặng thinh,
Gió hiu hiu nước bồng bềnh trăng soi.
Miệng sùi bọt, tay mỏi rời,
Cât đàn ông lão cáo lui quay mình.
Hát đàn ngót một canh liền,
Quẳng cho năm sáu đồng tiền nhỏ nhoi.
Dắt tay ra khỏi thuyền rồi,
Vẫn còn ngoái lại ngỏ lời tạ ơn.
Ta trông thấy những đau buồn,
Con người thà chết còn hơn sống nghèo.
Trung Hoa no ấm nghe nhiều,
Mà sao lắm cảnh gieo neo khốn cùng.
Thấy không, thuyền sứ lệ cung,
Ứ thừa gạo thịt vẩy vung khắp thuyền
Thỏa thuê chè chén đã thèm,
Cơm dư canh nguội đổ chìm đáy sông.


                     
Thái Bình mại ca giả
Thái Bình cổ sư thô bố y
Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi
Vân thị thành ngoại lão khất tử
Mại ca khất tiền cung thần xuy
Lân chu thời hữu hiếu âm giả
Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ
Thử thời thuyền trung ám vô đăng
Khí phạn bát thủy thù lang tạ
Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung
Tái tam cử thủ xưng đa tạ
Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh
Thả đàn thả ca vô tạm đình
Thanh âm thù dị bất đắc biện
Ðãn giác liêu lượng thù khả thinh
Chu tử tả tự vị dư đạo
Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành (1)
Quan giả thập số tịnh vô ngữ
Ðãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan súc
Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc
Ðàn tận tâm lực cơ nhất canh
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai
Do thả hồi cố đảo đa phúc
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân
Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ
Hành nhân bão thực tiện khí dư
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.
太平賣歌者
太平瞽師粗布衣
小兒牽挽行江湄
云是城外老乞子
賣歌乞錢供晨炊
鄰舟時有好音者
牽手引上船窗下
此時船中暗無燈
棄飯潑水殊狼藉
摸索引身向坐隅
再三舉手稱多謝
手挽弦索口作聲
且彈且歌無暫停
聲音殊異不得辨
但覺嘹喨殊可聽
舟子寫字爲余道
此曲世民與建成
觀者十數並無語
但見江風蕭蕭江月明
口噴白沫手酸縮
卻坐斂弦告終曲
殫盡心力幾一更
所得銅錢僅五六
小兒引待下船來
猶且回顧禱多福
我乍見之悲且辛
凡人愿死不愿貧
只道中華盡溫飽
中華亦有如此人
君不見使船朝來供頓例
一船一船盈肉米
行人飽食便棄餘
殘肴冷飯沉江底
Thơ chữ Hán Nguyễn Du
Trần Ngọc Hưởng dịch

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013


龍城琴者歌



龍城佳人 
不記名字 
獨善絃琴 
舉城之人以琴名 
學得先朝宮中供奉曲 
自是天上人間第一聲 
余在少年曾一見 
監湖湖邊夜開宴 
此時三七正芳年 
春風掩映桃花面 
酡顏憨態最宜人 
歷亂五聲隨手變 
緩如涼風度松林 
清如隻鶴鳴在陰 
烈如荐福碑頭碎霹靋 
哀如莊舄病中為越吟 
聽者靡靡不知倦 
盡是中和大內音 
西山諸臣滿座盡傾倒 
徹夜追歡不知曉 
左拋右擲爭纏頭 
泥土金錢殊草草 
豪華意氣凌公侯 
五陵年少不足道 
并將三十六宮春 
換取長安無賈寶 
此夕回頭二十年 
西山敗後余南遷 
咫尺龍城不復見 
何況城中歌舞莚 
宣撫使君為余重買笑 
席中歌妓皆年少 
席末一人髮半華
顏醜神枯形略小 
狼藉殘眉不飾粧 
誰知便是當年城中第一調 
舊曲新聲暗淚垂 
耳中靜聽心中悲 
猛然億起二十年前事 
監湖湖邊曾見之 
城郭推移人事改 
幾度桑田變蒼海 
西山基業一旦盡消亡 
歌舞空留一人在 
瞬息百年曾幾時 
傷心往事淚沾衣 
南河歸來頭盡白 
怪底佳人顏色衰 
雙眼瞪瞪 空想像 
可憐對面不相知






Long thành cầm giả ca

Long thành giai nhân 
Bất ký danh tự 
Ðộc thiện huyền cầm 
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh 
Học đắc tiên triều cung trung Cung Phụng khúc 
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh 
Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến 
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến 
Thử thời tam thất chánh phương niên 
Xuân phong yểm ánh đào hoa diện 
Ðà nhan hám thái tối nghi nhân 
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến 
Hoãn như luơng phong độ tùng lâm 
Thanh như chích hạc minh tại âm 
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch 
Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt ngâm 
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện 
Tận thị Trung Hòa Ðại Nội âm 
Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo 
Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu 
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo 
Hào hoa ý khí lăng công hầu 
Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo
Tính tương tam thập lục cung xuân 
Hoán thủ Trường An vô giá bảo 
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên 
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên 
Chỉ xích Long Thành bất phục kiên (kiến) 
Hà huống thành trung ca vũ diên 
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu 
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu 
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa 
Nhan xú thần khô hình lược tiểu 
Lang tạ tàn my bất sức trang 
Thùy tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu 
Cựu khúc tân thanh ám lệ thùy 
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi 
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự 
Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi 
Thành quách suy di nhân sự cải 
Kỷ độ tang điền biến thương hải 
Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong 
Ca vũ không lưu nhất nhân tại 
Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y 
Nam Hà quy lai đầu tận bạch 
Quái để giai nhân nhan sắc suy 
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng 
Khả liên đối diện bất tương tri.
(1) Đàn Nguyễn (Nguyễn cầm) tức đàn nguyệt. Tục truyền đàn nguyệt do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn (Trung quốc) sáng chế nên gọi là đàn Nguyễn 
(2)Tiền triều: Chỉ triều nhà Lê, vì lúc đó thuộc triều Tây Sơn.
(3) Hồ Giám (Giám hồ) hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội).
(4) Bia Tiến Phúc: tên tấm bia dựng ở một ngôi cổ ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây (Trung Quốc). Tương truyền dưới triều nhà Tống,  Phạm Trọng Yêm lúc làm quan ở Bá Dương, có người học trò nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho rập một nghìn bản để bán lấy tiền. Chưa rập xong thì một đêm kia bia bị sét đánh vỡ tan.
(5)Trang Tích: sống ở thời Xuân Thu, Trung Quốc. Ông là người nước Việt, làm quan nước Sở. Khi ông ốm, Sở Vương hỏi cận thần: "Tích là kẻ tầm thường ở đất Việt, nay làm quan nước Sở, được phú quý rồi, thì còn nhớ nước Việt nữa không?". Viên thị ngự đáp: "Phàm người ta có nhớ nước cũ hay không, thường tỏ ra trong lúc đau ốm. Nếu lúc này ông ta nói tiếng Việt tức là nhớ nước Việt, bằng không thì nói tiếng nước Sở". Sở Vương sai người lén nghe thì thấy Trang Tích nói tiếng Việt. Dẫn tích này để ám chỉ người không quên quê hương, đất nước. 
(6) Đại nội Trung Hòa: tên một tòa điện trong hoàng thành nhà Lê.
(7) Vãi thưởng: dịch thoát chữ Triền đầu. Đời Đường trong yến tiệc vua đãi, ai đứng dậy múa được ban gấm để quấn đầu như vật tặng thưởng. Về sau các món tiền thưởng cho người ca múa được gọi là triền đầu. 
(8) Ngũ Lăng: một vùng đất ngoại ô phía tây kinh thành Trường An (Trung quốc), ở đó có năm lăng mộ của năm vua nhà Hán. Về sau nơi này, quan lại, quí tộc cấp cao và dân hào hoa phú quý thường ở. Ngũ lăng thiếu niên, chỉ những con nhà quyền quý, giàu sang. Bài ''Tì Bà Hành'' của Bạch Cư Dị có câu: ''Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu''. 
(9)Ba mươi sáu cung xuân (Tam thập lục cung): trong đền vua ngày xưa bên Trung quốc có 36 cung chứa đầy mỹ nữ. 
(10)Trường An hay Tràng An là kinh đô của hơn mười triều đại Trung Quốc. Trường An (
長安) nghĩa là an bình lâu dài. Thời Tây Chu được gọi là Phong Kinh (豊京). Thời Tây Hán được gọi là Trường An. Thời nhà Tấn, được gọi là Thường An (常安) nghĩa là luôn an bình. Từ thời nhà Minh được gọi là Tây An. Và nay được gọi là Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây.
(11)Chỉ quan trấn thủ Bắc Thành, vào lúc Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc mùa xuân 1813.

(Tiểu dẫn của Nguyễn Du)

Long thành Cầm giả, bất tri tính thị. Văn kì ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kì nhân lưu lạc thị triền, hiệp kĩ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kĩ. Dư thiểu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ điếm. Kì bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kì nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch, Triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch ủy tích mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân khoát kiểm, ngạch đột diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hỉ lãng hước, nhãn hoắc hoắc, khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ, ngọa địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dã. Hậu sổ tải, Dư tòng gia nam quy, bất đáo Long thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc
sứ, đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kì nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kì trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thùy hà. Duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tức kì nhân dã. Ta hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kì khả lượng da. Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.
Người gảy đàn ấy không rõ họ tên là gì, chỉ nghe thuở nhỏ nàng đã theo học đàn Nguyễn trong bộ nữ nhạc cung vua Lê. Tây Sơn dấy binh, đội nhạc cũ chết chóc, tản mác. Nàng lưu lạc nơi đầu chợ, ôm đàn hát rong. Những bài nàng đàn đều là những khúc gảy hầu nhà vua, người ngoài không ai được nghe, cho nên nàng được khen là “tuyệt kỹ” của một thời.



Tôi, hồi trẻ đến kinh đô thăm anh tôi, đêm trọ ở quán bên hồ Giám. Cạnh đấy, các quan Tây Sơn tụ hội bọn con hát, trong đó con hát nổi tiếng không dưới vài chục người. Nàng thạo đàn Nguyễn, hát cũng hay, lại khéo pha trò. Người xem đều mê mẩn, nhiều lần thưởng cho nàng những chén rượu lớn, nàng tức thì uống cạn, tiền lụa thưởng nhiều vô số kể, chất đầy mặt đất. 
Tôi lúc ấy nấp trong bóng tối, không trông rõ lắm. Sau gặp nàng ở nhà anh tôi. Nàng không đẹp lắm, người thấp, má phính, trán dô, mặt gãy, người đẫy đà, khéo trang điểm, mày nhạt phấn đậm, áo màu hồng, quần lụa đen biếc, phong nhã tươi tắn. Nàng hay uống rượu, thích hài hước, mắt long lanh, chẳng hề để ý đến một ai. Ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu nàng đều say, nôn mửa cả ra, nằm dài trên đất, bạn bè cũng không để tâm chê trách. Sau đó vài năm tôi dời vào Nam, và từ đó không trở lại Thăng Long nữa.
Mùa xuân năm nay, tôi phụng mệnh sang sứ phương Bắc, trên đường qua Thăng Long, các quan có đặt tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ nên cho gọi hết nữ nhạc trong thành, con hát trẻ đến mấy chục người, tôi đều không biết mặt biết tên. Họ thay nhau ca múa. Rồi nghe vút lên một khúc đàn Cầm trong trẻo, nghe khác hẳn các khúc nhạc đương thời. Tôi lấy làm lạ nhìn người đàn, thì thấy người gầy võ, thần sắc khô khan, mặt đen, xấu như quỉ, quần áo toàn bằng vải thô, bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi lặng lẽ ở cuối chiếu, không nói không cười, hình dáng khó coi quá.
Tôi không biết là ai, duy nghe tiếng đàn thì dường như đã từng quen biết nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi đến người chơi đàn thì ra chính người gảy đàn ngày xưa ấy. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi này! Tôi bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, khôn xiết cảm thương cho sự đổi thay xưa và nay. Đời người trăm năm, vinh nhục buồn vui khó có thể nào lường được. Sau khi từ biệt, suốt trên đường đi tôi cảm xúc vô hạn, nên làm bài ca để gởi mối cảm hứng.

Bài ca người gảy đàn ở Long thành

Khách giai nhân đất Long Thành,
Chẳng ai nhớ được rõ rành họ tên.
Nguyệt cầm nổi tiếng ngón riêng,
Trong thành ai cũng gọi quen cô Cầm.
Lừng danh Cung phụng khúc đàn,
Từ bao triều trước thế gian đâu bằng.
Nhớ xưa từng gặp một lần,
Tiệc vui hồ Giám đến gần nửa đêm.
Hai mươi mốt tuổi hồn nhiên,
Áo hồng đào ánh hồng lên mặt đào.
Ngấm hơi rượu má hồng sao,
Phím đàn dìu dặt tuôn trào năm cung.
Khoan như gió thoảng rừng thông,
Trong như đôi hạc vọng trùng xa xăm.
Mạnh như Tiến Phúc sét gầm,
                 Buồn như tiếng Việt, Tích nằm bệnh rên.
Nghe rồi mệt mỏi dường quên,
Tiếng đàn đại nội vẳng lên Trung hòa.
Tây Sơn quan khách la đà,
Mảng vui muốn kéo dài ra đêm dài.
Bốn bề gieo thưởng đua tài,
Bạc vàng coi rẻ vung tay ném bùn.
Vẻ hào hoa át vương công,
Ngũ Lăng chàng trẻ cũng khống kể nào.
Cung xuân băm sáu lắng vào,
Trường An một vật báu trao tay người.
Hai mươi năm thoắt qua rồi,
Tây Sơn đổ sụp, ta rời về nam.
Long Thành chốc bỗng quan san,
Nói làm chi chuyện hát đàn đã xa.
Đậm tình Tuyên phủ tiễn ta,
Tiệc vui ca nữ mặt hoa tuyệt vời.
Nhác trông chiếu cuối một người,
Tóc hoa râm dáng gầy hơi chớm già.
Đôi mày phờ phạc phôi pha,
Giấu sao hết nét tài hoa một thời .
Khúc xưa nổi, lệ thầm rơi,
Lắng nghe thêm, những bời bời ruột đau.
Hai mươi năm chẵn qua mau,
Mà người hồ Giám năm nào còn đây.
Con người thành quách đổi thay,
Nương dâu  hóa biển khơi đầy, chao ôi!
Tây Sơn sự nghiệp thôi rồi,
Mà phường hát múa một người còn trơ.
Trăm năm nào khác giấc mơ,
Cảm thương việc cũ lệ khô áo là.
Về nam bạc hết tóc ta,
Trách chi ai phấn hương hoa chớm tàn.
Giương đôi mắt ếch mơ màng,
Thương nhau gặp mặt lòng càng thêm xa.