Thứ Tư, 27 tháng 4, 2011

Cạn với Tháp Mười

Tranh Trịnh Thanh Tùng


Vỏ lải hay tắc rán
Xuồng ba lá…được thôi!
Đủ để ta xuôi ngược
Rong ruổi với Tháp Mười

Nước trôi, xuồng rẻ sóng
Miền khói sương tuyệt mù
Rạch kênh đầy quyến rũ
Ta hóa kẻ mộng du

Người lính già đầu bạc
Trở lại chiến trường xưa
Nhìn bãi lau trắng phếch
Bên bờ đầm, tưởng mưa

Rưng rưng hồn trận mạc
Tiếng cúm núm tút bầy?
Có ai vừa bật khóc
Đống  xương tàn đâu  đây!

Giọt ghi ta rơi khẽ
Hóa dòng chảy  không tên
Hương tràm bùng nỗi nhớ
Ở mãi với hương đêm

Rót đầy ba cốc rượu
Mộng mị vẫn chưa nguôi
Tạ lỗi cùng sông nước
Ta cạn với Tháp Mười…
 


Vĩnh Hưng 19 – 4 – 2011
Trần Ngọc Hưởng


  

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

vọngcổ

Tranh Vũ Thái Hoà 

mướt rượt làn hơi bay vút lên
vòm trời gió lộng rộng vô biên
một thời mở cõi còn lưu dấu
nhịp mái chèo khua sóng vỗ thuyền

bao lớp lưu dân rời Ngũ Quảng
chung đời lưu lạc giạt về đây
đêm sâu lắng nỗi sầu xa xứ
đứt ruột đàn ai . . . chỉ một dây !

kết nhánh bần gie đom đóm đậu
xàng xê u liếu... nối tình thân
lòng qua thương bậu đêm nằm mộng
hổ thét cạnh chòi, sấu quấn chân

ta ngủ gối đầu bên lưỡi phảng
tay còn vương lại giọt phù sa
đồng sâu nước lũ, em đừng khóc
chín mạch Rồng chung... nỗi nhớ nhà !

mồ hôi tưới xuống thành câu hát
sông Hậu sông Tiền buổi khẩn hoang
chưng cất trong tâm, hồn cố thổ
quờ tay là đã đụng cung đàn

đỉa vắt muỗi mòng chen với cỏ
hồn oan chướng khí ngập vào sương
dây kìm pha oán hơi Nam trổi
gửi mãi nghìn sau một khúc buồn
                                     Trần Ngọc Hưởng



Thứ Hai, 25 tháng 4, 2011

Viết ở Láng Sen

                                          Tranh Phạm Lực

Búp sen úp mở Tháp Mười

Lá xanh ngửa mặt đội trời Tân Hưng

Láng xa,hoa ngủ sương rừng

Nửa khuya dọi bóng một vừng trăng nghiêng



Tháp Mười mở úp búp sen

Lá xoè chén rượu đêm biên giới dài

Láng buồn mòn cánh chim bay

Chẳng ai chờ đợi chiều nay tôi về



Đất trời úp mở láng quê

Nào ai đã rải bùa mê chốn này

Đầm tràn sen muộn hương say

Tôi nâng sương khói ngang mày trăm năm



Mộng xanh rừng, một cõi rằm

Đã sâu lắng chuyện cát lầm bụi trong

Quê nhà bóng rợp bao dung

Mênh mang sen trắng sen hồng mênh mang



Một ngày mới thật nhẹ nhàng

Xóa nhoà từng bước đêm tan xóa nhoà

Chắc chi thiên hạ người ta

Tôi về mộng giữa quê nhà bao dung…
Tân Hưng 21 – 4 - 2011
Trần Ngọc Hưởng

Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

Chẳng thể
                                                             Tranh Trịnh Công Sơn                                                                 
Người lính già trở lại

Lúa đã xanh mịt trời

Gậy tre dò dấu cũ

Thoáng mùi máu, mồ hôi...



Gió Tháp Mười thổi lộng

Chiều biên giới rưng buồn

Trời khóc hay người khóc?

Tỏ mờ muôn hạt sương!



Hạt nào rơi thấm mộ

Nhoè ướt tiếng chuông chùa

Khơi lên dòng ký ức

Người nằm xuống đêm xưa...



Hạt nào rơi bất chợt

Bao đồng đội khuất chìm

Đáy mương hay lòng rạch

Mơ hồ đâu tuổi tên!



Hạt nào, hạt nào nhỉ!

Không đếm hết được đâu

Độ lượng lòng đất mở

Ôm vào bao vết đau



Anh tìm về chốn cũ

Lòng chẳng thể nguôi quên

Bốn mươi năm dai dẳng

Lòng chẳng thể bình yên
Láng Sen 21- 4 - 2011
Trần Ngọc Hưởng





















Đoá sen ngàn năm

Tranh Vũ Thái Hoà



Hoang dã trăng Tháp Mười

Sóng sánh vàng nhảy múa

Dập dềnh cánh sen tươi

Trắng hồng đều như lụa



 Đoá sen đó ngàn năm

Láng bàu xanh Vĩnh Đại

Trải nắng rát mưa dầm

Vẫn đương thì con gái



Ngực nõn đẫm hương đồng

Tóc mun mềm gối đất

Gửi lại mãi trăng rằm

Tuổi xuân nồng hương mật



Bom đạn đã đi qua

Dư âm còn vẳng lại

Muôn sắc vóc nõn nà

Thịt da ai con gái



Ru em đủ hai mùa

Cả hai vầng nhựt nguyệt

Lời ru đó từ xưa

Đất trời cùng tưởng tiếc



Cánh trắng lẫn cánh hồng

Tháp Mười ơi có phải?

Ai xưa ngả xuống đồng

Nay thành hoa, sống mãi …
Láng Sen 20 - 4 - 2011
Trần Ngọc Hưởng

Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2011

Lũ Miền Tây


                                  Thiếu nữ - Tranh Trịnh Cung


Cúm núm tút bầy mùa lũ muộn
Tiếng bìm bịp đổ nước rông chưa?
Tháp Mười bỗng đắm mình trong sóng
Rắn chuột cá linh… bỗng rộn mùa

Xoè vàng rạng rỡ bông điên điển
Đâu lá sen non vụt nở thầm?
Lặn hụp, với tìm…bao khoảng lặng
Giữa mênh mang nước vẫn dầm thân

Giăng câu buông lưới xuồng ba lá
Tay chống tay chèo có mỏi mê?
Rượu cạn ba ly còn buốt lạnh
Mỗi năm bốn tháng cõi đi về

Đêm nay ngủ lại khôn yên giấc
Bứt rứt đàn bầu bứt rứt mưa
Chợt nhớ quanh mình đâu cũng lũ
Mơ màng cả tiếng mái dầm khua

Đứng lặng ngậm ngùi trong cõi quạnh
Vương mùi rạ cũ mảnh trăng côi
Em nghiêng tóc xoã đêm hồng thuỷ
Sóng dợn trăm năm cuộc lở bồi

Ai thả đong đưa bài vọng cổ
Xuống xề chi để mạn xuồng nghiêng
Khọng cần nói lối ngâm sa mạc
Cũng thấy miền Tây lũ thật hiền
Tân Hưng 2008 - 2011
Trần Ngọc Hưởng




Thứ Năm, 14 tháng 4, 2011

Yên Tử


                                        Tranh Vũ Thái Hoà 

Ta xuôi đông bắc lên Yên Tử

Chiếc gậy vô thường đỡ bước chân

Rừng núi gập ghềnh muôn bậc đá

Kìa con thác bạc nước trong ngần



Mở ra thánh địa nghìn năm tuổi

Lụa nõn phơi lòng suối Giải Oan

Mây núi bồng bềnh sương khói cũ

Mang mang Trời - Đất - Phật… mang mang



Kỳ vĩ đền, chùa, am, tháp, mộ…

Đường tùng, thông, đại, trúc…cheo leo

Gió đưa nhẹ phủ làn mây trắng

Vôi lở còn hằn dấu gạch rêu



Hương trời lãng đãng hoa vô lượng

Đâu dấu người xưa lội bộ lên

Đặt tượng thờ vua hay cúng Phật

Khơi nguồn đuốc tuệ giữa non thiêng



Ngõ trúc hút xa về mãi phía

Chùa Đồng chuông vọng lá xanh đầy

Tâm thành dâng trọn lên Yên Tử

Trong vắt lòng ta vương khói mây
Tháng 3- 2007

Trần Ngọc Hưởng








Thứ Hai, 11 tháng 4, 2011

Về bến sông xưa

                                                                         Tranh Trịnh Thanh Tùng


Lại quay về bến sông xưa

Lối mòn cây lá và mưa nắng cài

Soi tình đáy nước tìm ai

Bỏ bùa yêu để đêm dài nhớ nhau



Ai đi tận đẩu tận đâu

Phút nào chia biệt kiếp sau còn buồn

Gieo chi ngọn gió vô thường

Cho ta nhớ nhớ thương thương một đời



Nổi trôi đã mấy lượt rồi

Vẫn còn tay trắng như hồi trắng tay

Ta ngồi đối bóng đêm nay

Cô đơn như sóng bủa vây tư bề



Ngựa đời vó mỏi chân ê

Một lần ngủ với sông quê một lần

Thức trong mộng mị bần thần

Tóc xanh ngày cũ tuổi xuân đâu rồi



Trăm năm cơm áo rối bời

Đường đi không đến… cõi người mù tăm

Phù sa đỏ quạch bàn chân

Dáng ai từ chốn xa xăm chợt về



Ta còn vướng sợi tơ chi

Mà quay lại bến sông quê bao lần

Nước trong rửa mặt rửa chân

Rửa sao sạch cả phong trần đa đoan

Trần Ngọc Hưởng




Thứ Tư, 6 tháng 4, 2011

 
Mảnh trời thơ

                               Tranh Bạch Lan

Trọn cả đời ta luôn gắn bó
Đôi dòng Vàm Cỏ mảnh trời thơ
Bén duyên từ dạo còn gian khó
Gồng gánh nuôi nhau đến tận giờ

Bốn mươi năm lẻ luôn tha thiết
Luyến nắng Tân An gió Thủ Thừa
Chiều muộn qua cầu mưa Bến Lức
Mùa thơm tới rộ chín vàng trưa

Bất chợt Kỳ Son ngày ghé lại
Đồng xa trĩu hạt lúa thơm nồng
Còn chăng vết tích trang hiền sĩ
Đâu Vọng Mai đình dáng Nguyễn Thông

Đứng lặng bao phen vàm Nhựt Tảo
Nhặt con sóng cũ nước còn sôi
Ánh trăm năm lẻ tàu Hi vọng
Cháy đỏ mặt sông mát dạ người

Rải ánh trăng thanh Huê Mỹ Thạnh
Nhịp nhàng sóng lúa dập dờn trôi
Chưa quên dấu cũ thời binh lửa
Nhành lúa máu loang nắng mật ngời

Nghĩa binh Cần Giuộc còn vang bóng
Giữa tiếng chuông chùa Tôn Thạnh buông
Đâu dáng cụ Đồ đang giảng sách
Tôn vinh đạo lý luận văn chương

Về Kinh Nước Mặn qua Cần Đước
Ăn gạo Nàng Thơm nhớ Chợ Đào
Miền Hạ thuyền ai còn gác máy
Lục bình tím rịm khúc ca dao

Vỏ lải cùng ta từng hít thở
Hương tràm Tân Thạnh gác kèo ong
Nóp bàng khép vội đêm trôi nổi
Ôm cánh sen hoang ngủ giữa đồng

Ân tình sâu nặng cùng năm tháng
Thành phố Tân An ngập ánh đèn
Gió thổi bờ kè ngàn gió lộng
Cùng ta chong mắt đón trăng lên
Trần Ngọc Hưởng






 

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2011

Bóng mát Miệt Vườn

 

“ Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh “
Khi đầu em dựa vai anh
Lời ru chung ấy bỗng thành riêng tư
Miệt Vườn xanh biếc chiếc dù
Vòm cây trái mát hát ru bước mình
Ngập ngừng từng nhịp võng xanh
Nụ hôn chao giữa lá cành non tơ
Từ lời ru buổi tuổi thơ
Vượt bao thao thức bây giờ về đây
Nắng vờn sóng sánh bờ cây
Gió mênh mang mở bàn tay lá mềm
Mùa sầu riêng dậy hương riêng
Tình yêu cho lửa bùng lên bồi hồi
Dịu dàng sao cỏ non ơi!
Bàn chân tươi mát nụ chồi mướt xanh
Dễ chi khép được lòng mình
Mở ra với gió rộng thênh Miệt Vườn
Về đây đi bên người thương
Lời ru xưa cứ vấn vương tâm hồn
Không bông bí luộc dưa hường
Tình ta vẫn ngọt lành hơn gió trời

             
 Trần Ngọc Hưởng
MỘT CÕI ĐI VỀ

Tranh Nguyễn Trung 

Thì thôi đã tuyệt mù xa
 Mênh mang những gió, bao la những  trời
Lìa quê  tuổi mới lên mười
Ruổi giong từ đó nổi trôi bồng bềnh

Muôn vàn  kỷ niệm chông chênh
Biết thương quê, tuổi lớn lên … quặn lòng
Xứ người mấy đận long đong
Mượn làn mây trắng vời trông quê nhà!

Lần hồi ngày muộn mưa sa
Nhà xưa mẹ nối gót cha về trời
Ngoằn ngoèo hương khói chơi vơi
Chốn này vẫn một mình tôi lạc loài

Góp gom yêu dấu tháng ngày,
Tôi về với cuộc vần xoay cõi mình
Nuôi thơ chiu chắt giọt tình
Hoa tiên lưu nét trời dành đâu đây

Vòm trời quê thức đêm ngày
                                           Khói tâm linh lãng đãng bay bốn bề
Cho tôi một cõi đi về
Đong đưa hồn mộng bên lề tha hương
TRẦN NGỌC HƯỞNG


Thứ Hai, 4 tháng 4, 2011

GỬI GIÓ GÒ CÔNG



Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc

Gió nào độc bằng gió Gò Công

Một ngọn đông phong …


Hát ru Nam bộ

Tranh Ái Lan


***

Gió Gò Công độc đến đâu

Trăm năm một khúc hát ru lưu truyền

Cũng đâu thể độc bằng em

Thổi tôi xiêu lạc giạt nghiêng phố dài!



Tôi yêu em, em yêu ai

Một trường một lớp… lại hai hướng đời

Chao ôi! Sau nét hoa cười

Mắt em lấp loá dáng người lạ kia!



Chiều hoang hoải gió tôi về

Cỏ may ngơ ngẩn đêm mê thất tình

Ngọn đông phong thổi mà kinh

Tàn canh riêng một bóng hình hư hao



Gió Gò Công thổi phía nào

Sông xa phía ấy, núi cao phía này

Cũng đành em đó tôi đây

Riêng sâu kỷ niệm, riêng đầy khát khao



Thổi nhàu nát mảnh chiêm bao

Trăng rằm xưa khuyết nỗi đau nhói đời

Nào tôi dám trách chi người

Chỉ thương mình… cả một thời ngu ngơ!



Năm mỏi đợi, tháng mòn chờ

Gió Gò Công thổi bơ phờ tóc sương

Một đời tuyết trắng tha hương

Chút gì để nhớ cuối đường bão dông



Trần Ngọc Hưởng
Cốm Vòng

                                          Tranh Ái Lan 







Kìa ai! Chẳng thể nào lầm

Vai đầy gánh nặng nhịp chân nhẹ nhàng

Dọc đường phố rộn âm vang,

Sao không cất tiếng rao hàng bán rong?



Gánh chi gánh cả làng Vòng

Ngạt ngào hương cốm, hương hồng, hương quê

Gánh hàng êm ả mà đi

Giữa lòng Hà Nội nhu mì dáng ai…



Lá sen xanh phấn Hồ Tây

Làm chiếc đĩa đựng đơm đầy cốm thơm

Gói vào buộc bởi cọng rơm

Làm màu xanh cốm đẹp hơn… bội phần



Cốm làng Vòng một món dâng

Từ ngàn xưa của nếp đồng thổ ngơi

Quả hồng trứng chín đỏ rồi

Ánh vàng sợi nắng thu tươi kịp mùa



Vĩa hè em lại gặp chưa

Bóng người gánh cốm đong đưa hiền hòa

Cửa ô Cầu Giấy gánh qua

Gánh thơm thảo, gánh thật thà chân quê



Hồ Gươm vàng ánh thu về…


TRẦN NGỌC HƯỞNG

Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2011

NHÀ VĂN VÕ HỒNG QUA THƠ TRẦN NGỌC HƯỞNG - 
Lê Ngọc Trác
19.11.2010 22:31


                                                                   Nhà văn Võ Hồng

                                                            Nhà thơ Trần Ngọc Hưởng



Có những nhà văn, nhà thơ khi đi vào cuộc chơi chữ nghĩa họ không thuộc một nhóm, một trường phái nào cả. Họ không làm dáng, làm nổi bằng cách viết gai góc, hay tạo những giai thoại giật gân câu khách. Như những người nông dân, cần mẫn trên cánh đồng, họ âm thầm gieo những mùa hoa. Và, hoa đã cho hương, kết trái ngọt cho đời.


Tác phẩm của họ, dù ở vào thời đại nào, dù xã hội hay chế độ chính trị nào vẫn được người đời trân trọng và mến yêu. Đó là trường hợp của nhà văn: Phan Du, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng... (Và còn nhiều nhà thơ, nhà văn khác nữa).

Võ Hồng đã lấy tên thật của ông làm bút danh. Ông sinh ngày 5/5/1921 tại làng Ngân Sơn tỉnh Phú Yên. Năm 1940, sau khi đậu tú tài, Võ Hồng đi làm công chức cho chính phủ Trần Trọng Kim và sau này là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến năm 1949, Võ Hồng giã từ công việc của một viên chức nhà nước, ông chuyên tâm vào công việc dạy học và viết văn. Võ Hồng cầm bút khá sớm. Từ năm 1939, Võ Hồng đã có truyện ngắn đầu tay "Mùa gặt" đăng trên "Tiểu thuyết thứ Bảy" với bút hiệu Ngân Sơn. Trong cuộc đời sáng tác, Võ Hồng còn sử dụng các bút danh: Võ An Thạch, Võ Tri Thủy. Năm 1947, người vợ thân yêu của ông mất. Ông vừa nuôi con vừa dạy học và sáng tác. Năm 1959, Võ Hồng xuất bản tập truyện ngắn "Hoài cố nhân". Tác phẩm vừa ra đời đã được người đọc đón nhận nồng hậu. Từ năm 1959 đến năm 1993, Võ Hồng đã sáng tác và xuất bản hơn 20 tác phẩm, gồm: Hoài cố nhân (Ban mai – 1959), Lá vẫn xanh (Thời mới – 1962), Vết hằn năm tháng (Lá bối – 1966), Con suối mùa xuân (Lá bối – 1966), Khoảng mát (An tiêm – 1969), Bên kia đường (Mặt trời – 1968), Những giọt đắng (Lá bối – 1969), Trầm mặc cây rừng (Lá bối – 1971), Trong vùng rêu im lặng (HVN Nha Trang – 1988), Vẫy tay ngậm ngùi (NXB Trẻ – 1992), Hoa bươm bướm (Lá bối – 1966), Người về đầu non (Văn – 1968), Gió cuốn (Lá bối – 1969), Như cánh chim bay (Lá bối – 1971), Nhánh rong phiêu bạt (Lá bối – 1970), Thiên đường ở trên cao (Sở VHTT Nghĩa Bình – 1988), Áo em cài hoa trắng (Lá bối – 1969), Mái chùa xưa (Lá bối – 1971), Chia tay người bạn nhỏ (NXB Trẻ – 1991), Một bông hồng dâng cha (NXB Trẻ – 1991), Thương mái trường xưa (NXB Kim Đồng – 1993), Hồn nhiên tuổi ngọc, Thời gian mây bay...

Tác phẩm của Võ Hồng bao gồm nhiều thể loại: Truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết, truyện viết cho thiếu nhi... Trong những trang văn của Võ Hồng, chúng ta bắt gặp nét tinh tế trong diễn đạt. Lời văn trong sáng, trau chuốt và đậm chất thơ. Trong toàn bộ tác phẩm của Võ Hồng đều đậm chất nhân văn: "Người yêu người, sống là để yêu nhau". Với một tâm hồn nhân hậu, một cuộc sống đầy trải nghiệm, Võ Hồng gởi đến người đọc một thông điệp: "Dù trong hoàn cảnh mất mát, khổ đau đến đâu, con người chúng ta vẫn có thể tìm được hạnh phúc. Miễn là chúng ta cảm thông, tôn trọng, yêu thương nhau và vì nhau trong cuộc đời". Chính vì vậy, qua nhiều thời kỳ, nhiều thế hệ độc giả đều yêu mến tác phẩm của Võ Hồng. Thiên tài Phạm Công Thiện – một nhà thơ lớn của đất nước trong thế kỷ 20 – một người cao ngạo đã từng phủ nhận tất cả các triết thuyết và tôn giáo nhưng vẫn thể hiện sự quý mến đối với Võ Hồng và nhà thơ Quách Tấn. Điều này thể hiện sự đánh giá cao của Phạm Công Thiện về nhân cách, tâm hồn và tài văn thơ của Võ Hồng và Quách Tấn. Nhà văn Nguyễn Khải, một cây bút tầm cỡ về truyện ngắn và tiểu thuyết của miền Bắc xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi bàn luận về nhà văn Võ Hồng, Nguyễn Khải chép miệng nói: "Cái tay ấy lành mà cũng viết hay, nhỉ". "Lành" ở đây có lẽ Nguyễn Khải kín đáo nói đến tâm hồn và cách sống của nhà văn Võ Hồng. Còn "hay", Nguyễn Khải nói về tác phẩm của Võ Hồng.

Giáo sư Trần Hữu Tá đã có những nhận định về văn phong của Võ Hồng mà nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học cho rằng rất hay và chuẩn xác: "...Khi đọc truyện Võ Hồng, cái buồn dịu dàng cứ phảng phất đâu đây. Nhưng thật kỳ diệu, tâm trạng người đọc không bị chùng xuống, không mất lòng tin vào cuộc sống, mà ngược lại như bình tĩnh, thanh thản hơn...".

Với Trần Ngọc Hưởng, khi anh 11 tuổi, Võ Hồng đã có truyện ngắn sánh vai cùng các nhà văn: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Mạnh Phú Tư, Tô Hoài... xuất hiện trên tuần san "Tiểu thuyết thứ Bảy". Sau này đến năm 19 tuổi, Trần Ngọc Hưởng, người con trai của quê hương Gò Công đã đi vào con đường sáng tác thơ ca, khi được phỏng vấn về văn chương đương thời, đã khẳng định: "Yêu thích các tác phẩm của Võ Hồng, Sơn Nam, Nguyễn Văn Xuân...". Thế rồi mãi đến 31 năm sau (2000), Trần Ngọc Hưởng được vinh dự gặp gỡ nhà văn Võ Hồng, một tác giả mà anh từng yêu mến, tại thành phố biển Nha Trang. Dù không theo học Võ Hồng một ngày nào nhưng Trần Ngọc Hưởng kính trọng Võ Hồng như một người thầy của mình (người thầy mẫu mực, đầy kính trọng trong văn chương cũng như trong đời thường).

Trần Ngọc Hưởng là nhà giáo, nhà thơ. Chính từ sự quí trọng, đồng cảm với nhà văn Võ Hồng trong tác phẩm cũng như trong cuộc sống, mà Trần Ngọc Hưởng đã có những vần thơ viết về Võ Hồng tràn đầy tình cảm. Chúng tôi nhớ không lầm Trần Ngọc Hưởng đã có hai bài thơ viết về nhà văn Võ Hồng: Năm 2000, Trần Ngọc Hưởng viết bài thơ ngũ ngôn "Dáng thầy". Mười năm sau (2010) viết tiếp bài thơ "Thông điệp yêu thương". Nhiều người rất thích bài thơ "Thông điệp yêu thương", Trần Ngọc Hưởng viết về chân dung nhà văn Võ Hồng:

"Tự mình lót ổ sắc không
"Kéo dây chuông... gọi Võ Hồng"... đợi ai
Quạnh hiu ngày rộng đêm dài
Lòng luôn đau đáu nỗi Hoài Cố Nhân!
Vết Hằn Năm Tháng chân thân
Chảy hoài Con Suối Mùa Xuân trong lành
Bên Kia Đường, Lá Vẫn Xanh
Đong đưa Khoảng Mát bạc quanh tóc người
Vẫy Tay từ đó Ngậm Ngùi
Hoa Bươm Bướm nở bên trời rưng rưng!
Bao năm Trầm Mặc Cây Rừng
Lòng ta thấu hiểu lòng Luân yêu Quỳ!
Trái tim xúc động điều chi
Nhánh Rong Phiêu Bạt nỗi gì lênh đênh!
Năm mươi năm mấy nỗi niềm
Lắng nghe tóc bạc bao đêm một mình
Tách trà khuya có lên men
Trải ngày thu muộn, qua đêm đông tàn...
Hồn văn chong ngọn đèn vàng
Bao dung trước mọi hợp tan vô thường!
Từng thông điệp của yêu thương
Truyền đi từ một suối nguồn mênh mông
Lắng sâu đời cõi đục trong
Dầu hao bấc lụn chân dung không mờ!

Cụm từ viết hoa: Tên một số tác phẩm của nhà văn Võ Hồng

Trần Ngọc Hưởng đã tinh tế chọn lọc những nét đặc trưng trong cuộc đời và tác phẩm của Võ Hồng để đưa vào thơ của mình. Với 24 dòng thơ lục bát của Trần Ngọc Hưởng, chúng ta nhận biết được tâm hồn, nỗi niềm của Võ Hồng trong cuộc sống. Và, nội dung các tác phẩm tiêu biểu của ông. Một chân dung văn học đầy đủ về Võ Hồng mà chúng ta hằng yêu quí. Qua thơ, chúng ta đồng cảm, quí trọng cả hai tâm hồn Võ Hồng và Trần Ngọc Hưởng.

Đẹp biết bao những tâm hồn đôn hậu, rộng mở, thấm đẫm yêu thương trên cánh đồng văn chương thời hiện đại.


Tài liệu trích dẫn & tham khảo:


- Mắt xanh (Thơ Trần Ngọc Hưởng, 2010)

- Thơ tuổi 40 (Thơ Trần Ngọc Hưởng, 2000)

- Nhà văn Võ Hồng – nhánh rong dường như... sắp thôi phiêu bạt

(Ngô Kinh Luân)

TRẦN NGỌC HƯỞNG


"Đậm đà hương sắc miền châu thổ Cửu Long Giang" 
* Lê Ngọc Trác

                                                                          Tranh Đinh Cường 


Từ những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ 20, tôi đã đọc được thơ của Trần Ngọc Hưởng trên các báo, tạp chí văn học của miền Nam. Thế rồi, mãi đến 50 năm sau, tôi mới có dịp đọc được nhiều thơ của Trần Ngọc Hưởng. Những bài thơ của một tâm hồn đôn hậu, đầy ắp tình cảm vẫn còn nguyên trinh sự yêu mến trong tôi như thưở ban đầu ngày xưa đã từng đọc thơ anh.
Phần lớn thơ của Trần Ngọc Hưởng viết về vùng trời, sông nước miền châu thổ Cửu Long Giang, tình đất tình người của các tỉnh miền Tây Nam Bộ như chiếc nôi đã tạo nguồn cảm hứng trong thơ cho Trần Ngọc Hưởng. Qua thơ Trần Ngọc Hưởng, chúng ta được sống với sông nước Cửu Long Giang mênh mông, những cánh đồng xanh ngát tận chân trời. Màu xanh mướt tóc dừa nghiêng trong gió, màu khói đốt đồng thơm mùi rơm rạ phù sa châu thổ trong thời điểm giao mùa của đất phương Nam:
"Ôi Cửu Long Giang chín miệng Rồng
Ra khơi táp sóng nhớ nguồn sông
Chảy luồn máu đất trong dòng nước
Sông nhả phù sa lấp Biển Đông

Chia nhánh Tiền Giang, nhánh Hậu Giang
Đôi dòng huyết mạch của Miền Nam
Máu tim cuộn chảy ơi trìu mến
Khói sóng hòa hơi thở xóm làng

Mỏi cánh cò bay thẳng cánh đồng
Cột chèo soi bóng thấu lòng sông
Lưới khuya chụp sóng từng con nước
Chở nặng xuồng khua nhịp lớn ròng

Tóc mướt dừa nghiêng dòng Cửa Tiểu
Nhà chòi khách đợi chuyến đò ngang
Bên sông Cửa Đại phà hơi sóng
Tao tác gà trưa gáy muộn màng

Trôi giạt Ba Lai sông nước cũ
Tối rồi về núi cánh chim bay
Lửa chài hiu hắt đêm thao thức
Qua cửa Hàm Luông mặt nước đầy

Khói bếp bay hoài trên mái lá
Cổ Chiên sóng bạc vỗ hồn ta
Tung cao diều giấy đùa trong gió
Cô gái Cung Hầu cất giọng ca

Bùn đen điểm trắng bông bần rụng
Mây cuốn buồm xuôi cửa Định An
Trời rộng Trần Đề in đáy nước
Bến nào tách nhẹ mái chèo sang

Mây cao cuồn cuộn bông gòn trắng
Ba Thắt luân lưu máu một dòng
Cuống rún khôn lìa lòng đất mẹ
Dạt dào huyết mạch chín dòng sông".

(Huyết mạch miền Nam - Thơ Trần Ngọc Hưởng)
Thơ của Trần Ngọc Hưởng còn gợi cho chúng ta nhớ về một thửa "mở cõi" của tiền nhân:
"Áo vá quàng túi rỗng
Hồn thơm nuôi chí bền
Đánh cược với số phận
Tiếng độc huyền chênh vênh

Chẳng "sắc phong bảo kiểm"
Phu tướng cũng lên đàng..."
Tiếng độc huyền lưu lạc
Một khúc hành phương Nam

Lục bình trôi lãng đãng
Sông Hậu hay sông Tiền?
Tân An hay Mộc Hóa?
Mịt mờ chưa tuổi tên

Rưng rưng hồn lau sậy
Men rượu bạc chiều sương
Gõ nhịp xuồng ba lá
Tiếng độc huyền tha phương

Đất mới bao huyền thoại
Nước rong sóng vượt bờ
Đêm mộng nghìn lúa trổ
Hạt no tròn vàng mơ...

Rắn thành tinh khè lửa
Sấu thành tinh đội đèn
Vẹt muỗi mòng đĩa vắt...
Tiếng độc huyền vút lên...

Ai ôm đàn cầm phảng
Hiểm nguy sá chi hề
Máu mồ hôi thánh thót
Đất lạ đã thành quê

Mênh mang thời mở cõi
Ai "dạ cổ hoài lang"?
Tiếng độc huyền da diết
Một khúc tình phương Nam

Đêm nay xuôi Vàm Cỏ
Hồn giạt sóng bên trời
Tiếng độc huyền bứt rứt
Thương người xưa khôn nguôi..."
(Khúc tình phương Nam – Thơ Trần Ngọc Hưởng)
Bài thơ "Qua đò cầu Nổi", Trần Ngọc Hưởng viết cách đây 40 năm vẫn còn "neo đậu" trong lòng những người yêu thơ. Bài thơ đẹp, mượt mà, thơ mộng, tràn đầy tình cảm. Phải chăng "chuyến đò cầu Nổi" là bến bờ hạnh phúc trong đời của nhà thơ chúng ta?:
Ta qua Cầu Nổi năm năm trước
Gặp lại em trong một chuyến phà
Mưa bụi mù giăng tà áo tím
Nhớ thời trẻ dại đẹp như hoa

Nhớ trang vở cũ thương trường tỉnh
Thương tiếng chuông tan nhịp thước buồn
Thương buổi lìa đàn chim vỡ tổ
Một khung trời mộng chỉ còn hương

Thương bóng dù che phà tách bến
Dáng cô bạn nhỏ phút qua sông
Trong màu áo tím làn mưa bụi
Má ướt mà sao cứ ửng hồng

Sánh vai hai đứa cùng qua "bắc"
Gió thổi đôi bờ tóc rối bong
Thương quá mắt em đầy khói sóng
Neo hồn ta mãi giữa dòng trong

Năm xưa ngày đó ta là bạn
Đâu nghĩ ngày nay nên lứa đôi
Hai đứa nắm tay cùng xuống bến
Qua đò Cầu Nổi vợ hiền ơi!

Lòng ta nhớ mãi thương ngày đó
Áo tím bay hoài mưa bụi rơi
Đôi mảnh lòng son cùng sánh bước
Trăm năm trên một chuyến phà đời"
Trần Ngọc Hưởng viết những câu thơ về cha mẹ của anh, đọc xong chúng ta nghe lòng mình se thắt:
"...Ráng đỏ chiều hôm sâu lắng lại
Bảy mươi tuổi lẻ một đời cha
Lo toan nhiều nỗi riêng cơ cực
Từ tuổi thanh xuân đến tuổi già

Bông sậy đưa buồn phơ phất trắng
Cho con côi cút giữa quê mình
Bếp xưa soi mắt người yêu dấu
Cha chợt về trong đốm lửa xanh..."
(Trích bài thơ: Đốm lửa xanh Trần Ngọc Hưởng)
Bên cạnh nhiều bài thơ viết về miền Nam nơi anh đã sinh ra và lớn lên, Trần Ngọc Hưởng còn viết về những vùng đất mà anh đã từng đến, như: Phan Thiết, Huế, Hà Nội, Đà Lạt, Hạ Long... Những bài thơ anh viết về những vùng đất mà anh từng đến đều gợi mở trong chúng ta những giai thoại văn chương, lịch sử. Có lẽ, Huế là nơi cho anh cảm xúc thơ nhiều nhất. Nếu chúng tôi nhớ không lầm, Trần Ngọc Hưởng đã viết đến 5 bài thơ về Huế. Ngày xưa, Nguyễn Bính viết về mùa mưa xứ Huế. Mưa da diết, mưa dầm dề, đầy cô đơn và nghèo khổ. Ngày nay, Trần Ngọc Hưởng cũng viết về mưa Huế. Có thể nói, mưa Huế trong thơ của Trần Ngọc Hưởng đầy thơ mộng, tạo cho chúng ta một nỗi buồn man mác khi trải qua bể dâu của cuộc đời:
"Mưa đan chéo mặt sân rồng
Mờ mờ dáng chín đỉnh đồng Huế thơ
Gió day dứt tiếng chuông chùa
Em về nón mỏng chiều mưa nghiêng buồn

Nhòa dần mái cổ chon von
Tim trong ngực mệt đập mòn nhịp xưa
Hoàng thành đứng rũ trong mưa
Đằm đằm tóc trắng tượng thưa ôm đầu

Lá vèo trước cổng vào thu
Quanh đây lãng đãng sương mù nghìn năm
Mưa trời tiếng vọng âm âm
Một tôi tâm thức đôi phần quạnh hiu

Chia xa hồn tiếc thương nhiều
Mưa bong bóng vỡ bóng chiều nhặt hơn
Huế xa vời! Huế mù sương!
Huế lay phay hạt mưa vương tóc người..."
Trần Ngọc Hưởng sinh năm 1951 tại Gò Công, quê hương của miền gái đẹp. Và, nơi đây đã ghi đậm những chiến công hào hùng của người anh hùng Trương Công Định, thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp xâm lược trong thế kỷ 19. Hiện nay, anh định cư ở Tân An, Long An và dạy học tại trường Cao đẳng Sư phạm Long An.
Gần 60 tuổi đời,đến nay, Trần Ngọc Hưởng đã có hơn 40 năm gắn bó với thơ ca. Đến năm 2007, Trần Ngọc Hưởng đã xuất bản được 8 tập thơ, gồm: Bẻ lá che hường, Vườn xưa, Tay phấn, Thơ tuổi 40, Cuống rún chia lìa, Suối nguồn xanh, Chân dung thơ, Từ chín dòng sông vọng cổ. Có những thi phẩm tái bản đến lần thứ hai như Bẻ lá che hường, Tay phấn, Chân dung thơ.Điều này chứng tỏ thơ Trần ngọc Hưởng đã khẳng định vị trí trong lòng người yêu thơ.
Thơ của Trần Ngọc Hưởng giản dị, chân thực, tràn đầy tình cảm,đậm đà hương sắc miền châu thổ Cửu long Giang.Ý thơ sâu sắc.Thơ anh có độ rung lớn,làm lay động tâm hồn người đọc. Kế bước những nhà thơ: Kiên Giang - Hà Huy Hà, Trần Tuấn Kiệt... qua thơ, Trần Ngọc Hưởng làm đẹp thêm đất nước, con người miền Nam thân yêu.
 
Lê Ngọc Trác

Tài liệu tham khảo & trích dẫn:


- Thơ tuổi 40 (Trần Ngọc Hưởng)
- Từ chín dòng sông vọng cổ (Trần Ngọc Hưởng)